Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 20: Bài ca ngất ngây

6. Ý nào nói không đúng về thể hát nói ?

D. Dùng hình thức biền ngẫu, câu vă 4 chữ, 6 chữ, 8 chữ sóng đôi nhau.

7. Thể hát nói phù hợp với diễn tả tâm trạng của các nghệ sĩ nào?

A. Tài hoa, tài tử.

8. Bài hát nói chủ yếu được viết theo phương thức nào ?

A. Tự sự

9. Nhận định nào sau đây đúng với thể hát nói?
B. Đây là thể thơ trụ cột của ca trù, đặc biệt thịnh hành vào thế kỉ XIX. Xét về mặt văn học nó là một thể thơ cách luật. Bố cục đầy đủ (chỉnh thể) gồm 11 câu chia thành ba khổ. Ngoài ba phần chính, mỗi bài thường có thêm “mưỡu đầu” và “mưỡu hậu”. Nếu là một bài biến thể thì số khổ giữa có thể tăng gọi là “dôi khổ”, nếu giảm thì gọi là “thiếu khổ”.
10. Nguyễn Công Trứ viết “Bài ca ngất ngưởng” vào năm 1848, đó là lúc, ông:
C. Cáo quan về hưu.

 

pptx 26 trang trandan 08/10/2022 1860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 20: Bài ca ngất ngây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 20: Bài ca ngất ngây

Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 20: Bài ca ngất ngây
 về mặt văn học nó là một thể thơ cách luật. Bố cục đầy đủ (chỉnh thể) gồm 11 câu chia thành ba khổ. Ngoài ba phần chính, mỗi bài thường có thêm  “mưỡu đầu”  và  “mưỡu hậu”.  Nếu là một bài biến thể thì số khổ giữa có thể tăng gọi là  “dôi khổ” , nếu giảm thì gọi là  “thiếu khổ” . 10. Nguyễn Công Trứ viết  “Bài ca ngất ngưởng”  vào năm 1848, đó là lúc, ông:  C. Cáo quan về hưu.  
NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778 – 1858 ) 
Hành tẩu ở Quốc sử quán 
Tri huyện Đường Hào 
(Hải Dương) 
Tư nghiệp Quốc sử quán 
Tham tán quân vụ, Binh bộ thị lang 
Thừa thiên Phủ Thừa 
Tham tri bộ hình 
Hữu Tham tri bộ binh 
Tổng đốc Hải An 
Binh bộ Thượng thư 
Chủ sự bộ hình 
Lính thú Quảng Ngãi 
Nhiều thăng trầm, 
đầy bản lĩnh, 
ở cương vị nào cũng 
l ập công trạng 
Thanh liêm, 
chính trực, 
vì nước vì dân 
28 
năm 
làm 
quan 
Tri huyện 
Về hưu (quan tam phẩm) 
HÌNH ẢNH CÁC ĐÀO HÁT 
Hồng Hồng Tuyết Tuyết 
Mới ngày nào còn chưa biết chi chi 
Mười lăm năm thấm thoát có xa gì 
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu 
Khổ đầu 
( 4 câu) 
Khổ giữa 
( 4 câu) 
Hồng Hồng Tuyết Tuyết (Dương Khuê) 
Ngã lãng du thời khanh thượng thiếu 
Khanh kim hứa giá, ngã thành ông 
Cười cười nói nói sượng sùng, 
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại 
Riêng một thú Thanh Sơn đi lại 
Khéo ngây ngây dại dại với tình 
Đàn ai một tiếng dương tranh? 
Khổ cuối 
( 3 câu) 
Vũ trụ nội mạc phi phận sự, 
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. 
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, 
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. 
Lúc bình Tây cờ đại tướng, 
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. 
Đô môn giải tổ chi niên , 
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. 
Kìa núi nọ phau phau mây trắng, 
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. 
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. 
Được mất dương dương người thái thượng, 
Khen chê phơi phới ngọn đông phong. 
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, 
Không Phật, không tiên, không vướng tục. 
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, 
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. 
Trong triều ai ngất ngưởng như ông! 
Vũ trụ nội mạc phi phận sự 
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng 
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông 
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng 
Lúc bình Tây cờ đại tướng 
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. 
Đô môn giải tổ chi niên , 
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng 
Kìa núi nọ phau phau mây trắng 
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi 
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng 
Được mất dương dương người thái thượng 
Khen chê phơi phới ngọn đông phong 
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng 
Không Phật, không tiên, không vướng tục. 
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú 
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung 
Trong triều ai ngất ngưởng như ông. 
Tài năng hơn người 
Ngang tàng khi là dân thường 
Dám thay đổi để thích nghi 
Coi thường dư luận khen chê 
Trọn vẹn đạo vua tôi 
Vũ trụ nội mạc phi phận sự 
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng 
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông 
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng 
Lúc Bình Tây cờ Đại tướng, 
Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên. 
Đô môn giải tổ chi niên, 
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng 
Kìa núi nọ phau phau mây trắng, 
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. 
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. 
Được mất dương dương người thái thượng, 
Khen chê phơi phới ngọn đông phong. 
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, 
Không Phật, không tiên, không vướng tục. 
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, 
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, 
Trong triều ai ngất ngưởng như ông! 
“Ngất ngưởng ” khi cáo quan, về hưu 
“Ngất ngưởng” khi tự đánh giá tổng kết cuộc đời 
“ Ngất ngưởng” chốn quan trường 
Vũ trụ nội mạc phi phận sự 
Vũ trụ chức phận nội Đấng trượng phu một túi kinh luân.   (Phận sự làm trai) 
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.Nợ tang bồng vay trả, trả vay.Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. 
 (Chí làm trai ) 
“Khi Thủ khoa, 

File đính kèm:

  • pptxbai_giang_ngu_van_lop_11_tiet_20_bai_ca_ngat_ngay.pptx