Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 63: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Phạm Thị Thu Hương

II/ Đọc hiểu

1. Đọc và giải nghĩa từ khó :

2. Tìm hiểu văn bản:

+ Mâu thuẫn 1:mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.

+ Mâu thuẫn 2 : Giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

b. Nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô :

b1. Nhân vật Đan Thiềm :

Nêu những hiểu biết của em về nhân vật Đan Thiềm?

Đan Thiềm là một cung nữ nhưng lại có “bệnh” đam mê , trân trọng, nâng niu cái đẹp, cái tài của Vũ Như Tô - một kiến trúc sư biết sáng tạo cái đẹp.

ppt 16 trang trandan 120
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 63: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Phạm Thị Thu Hương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 63: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Phạm Thị Thu Hương

Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Tiết 63: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Phạm Thị Thu Hương
 đẹp? 
 Vì mê đắm cái đẹp đã khuyên Vũ Như Tô nhận lời xây đài 
Vì cái tài mà Đan Thiềm không quản ngại những điều thị phi, quên cả nguy hiểm của bản thân để bảo vệ Vũ Như Tô ( “khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết”) 
 Đan Thiềm là một người biết “ biệt nhỡn liên tài”- một người không mơ mộng mà tỉnh táo, thức thời, hiểu đời, hiểu người 
Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại 
của giấc mộng Cửu Trùng Đài được tái hiện như thế nào? 
*Tâm trạng của Đan Thiềm khi nhận ra thất bại 
của giấc mộng Cửu Trùng Đài: 
 Nàng đau đớn khi nghĩ đến sự sống chết của Vũ Như Tô. 
+ Có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như Tô 
“ trốn đi, lánh đi, đi đi, chạy đi”. 
+ Lời thúc giục vừa van xin, vừa khẩn thiết, quyết liệt: 
“ Ông nghe tôi ! . Đợi thời là thượng sách ! Đừng để phí tài trời. Trốn đi !” 
- Đến khi “có trốn cũng không được nữa”, Đan Thiềm tìm mọi cách van xin tha tội cho Vũ Như Tô: 
+ Đến khi “có trốn cũng không được nữa”, Đan Thiềm đã làm gì? 
 + Có đến 4 lần nàng nhắc lại yêu cầu khẩn thiết đó.  + Nàng sẵn sàng lấy tính mạng của mình để đánh đổi sự sống còn của Vũ Như Tô 
 “Đừng giết ông Cả . Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời. Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết”.  
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, chỉ còn tiếng kêu thảng thốt, 
đau đớn, nghẹn ngào, nức nở của Đan Thiềm: “Ông Cả! Đài lớn tanh tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt!”. 
+ Kết thúc lớp kịch thứ VII, Đan Thiềm đã có tâm trạng như thế nào? 
+ Những đổ vỡ của một giấc mộng lớn : ông cả, Đài lớn, cái tài, cái đẹp, tất cả đền tan tành trong cơn biến loạn. 
=> Mọi cố gắng giữ gìn, bảo vệ không thành. Câu nói cuối cùng của Đan Thiềm là lời vĩnh biệt mãi mãi Cửu Trùng Đài –vĩnh biệt một giấc mộng lớn trong máu và nước mắt- bi kịch của một tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài” 
b2. Nhân vật Vũ Như Tô : 
-Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba. 
Cái tài của ông được ngợi ca đến mức siêu phàm, một thiên tài 
 +“ ngàn năm chưa dễ có một”, “có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân”. + “ Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai để tô điểm nữa ”, “đừng để phí tài trời”. 
 -Vũ Như Tô vì quá khao khát đam mê chìm đắm trong cái đẹp mà trở nên mơ mộng, ảo vọng: xây dựng một công trình tô điểm cho đời - xa rời thực tế,quên lợi ích của nhân dân. 
Vũ Như Tô được nhắc đến là người như thế nào? 
Tại sao Vũ Như Tô lại trở nên mơ mộng, ảo vọng? 
Ông mơ mộng điều gì? 
Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô đã suy nghĩ gì? 
-Trong thời khắc biến loạn dữ dội, Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, 
 vẫn say sưa với giấc mơ Cửu Trùng Đài: 
+ “ Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông”, ông vẫn cho là “họ hiểu nhầm”. 
+ Tận mắt chứng kiến cảnh đốt phá, nghe tiếng quân reo tìm 
 mình phanh thây, ông vẫn cho là điều “vô lý”. 
+ Bị bắt dẫn về trình chủ tướng, ông hy vọng có thể “ phân trần ”, 
“ giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta” 
Khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô đã có 
tâm trạng như thế nào? 
Chỉ đến khi Cửu Trùng Đài bị cháy, Vũ Như Tô 
mới nhận ra sự thực về giấc mộng lớn đã tan tành: 
+ Vũ Như Tô “rú lên” kinh hoàng và tuyệt vọng “Đốt thực rồi! 
Đốt thực rồi!.. Ôi mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài!” 
 Nỗi đau vỡ mộng hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, 
khắc khoải – Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. 
Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh 
 chúng ta điều gì? 
* Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề 
 muôn thuở : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống 
 NGHỆ THUẬT PHẢI VỊ NHÂN SINH thì nghệ thuật mới tồn tại 
và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ. 
- ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. 
- xung đột kịch thể hiện tính cách, tâm trạng nhân vật (ngôn ngữ và hành động) rất thành công. 
- Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp, các tiếng reo, tiếng théttạo một không gian bạo lực kinh hoàng. 
- đặt nhân vật trong không gian 

File đính kèm:

  • pptbai_giang_ngu_van_lop_11_tiet_63_vinh_biet_cuu_trung_dai_pha.ppt