Đề luyện tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Đề 1

3. Hãy xác định và cho biết tác dụng của những câu hỏi tu từ ở đoạn (2) của văn bản.

4. Anh/chị suy nghĩ như thế nào khi tác giả cho rằng: “Bạn chợt nhận ra mình đặc biệt. Không, rất đặc biệt mới đúng. Và không thể có ai tranh giành được.”

 

docx 2 trang trandan 07/10/2022 3940
Bạn đang xem tài liệu "Đề luyện tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Đề 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề luyện tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Đề 1

Đề luyện tập môn Ngữ văn Lớp 12 - Đề 1
Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu mà ta từng dự đoán trước, còn hơn giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra”. Một lời nói tuyệt đẹp.
(Hãy là chính mình, trích “Đời ngắn, đừng ngủ dài”, Robin Sharma, NXB Trẻ)
1. Nêu phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
2. Theo tác giả, vì sao “Không bao giờ có ai giống như tôi. Và không bao giờ có ai giống như bạn”?
3. Hãy xác định và cho biết tác dụng của những câu hỏi tu từ ở đoạn (2) của văn bản.
4. Anh/chị suy nghĩ như thế nào khi tác giả cho rằng: “Bạn chợt nhận ra mình đặc biệt. Không, rất đặc biệt mới đúng. Và không thể có ai tranh giành được.”
II. PHẦN LÀM VĂN
	Câu 1 (2 điểm): Từ nội dung ở phần đọc hiểu, anh/chị viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của bản thân về chủ đề “Hãy là chính mình”.
Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn sau:
 []
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, nhũng mong con sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá  Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ nó trước đây không? ...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
(Trích “Vợ nhặt” – Kim Lân, SGK 12 tập II, NXB Giáo dục)
Từ đó anh/ chị hãy bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo mà nhà văn Kim Lân đã gửi gắm trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.

File đính kèm:

  • docxde_thi_khao_sat_trung_hoc_pho_thong_quoc_gia_mon_ngu_van.docx